Tiến bộ điều trị ung thư gan từ các bệnh viện và trung tâm đầu ngành mới nhất
Bệnh viện K tổ chức chương trình Tâm điểm ung thư "Tiến bộ trong điều trị ung thư gan - Góc nhìn chuyên gia lâm sàng" Chuyên gia tham dự - TS.BS Trần Thắng, Trưởng khoa Nội tiêu hóa, Bệnh viện K - ThS. BSCK II Vũ Xuân Huy, Phó Trưởng khoa Xạ tổng hợp Tân Triều, Bệnh viện K Nội dung thảo luận: - Thực hành lâm sàng điều trị đa mô thức với góc nhìn chuyên gia xạ trị - Vai trò TKI trong bối cảnh nhiều tiến bộ điều trị ung thư gan.
Dưới sự tiến bộ của khoa học và y học, hiện nay đã có rất nhiều kỹ thuật điều trị bệnh ung thư gan tùy theo từng giai đoạn bệnh. Việc lựa chọn phương pháp điều trị được các bác sĩ cân nhắc dựa trên sức khỏe, chức năng gan, mức độ xơ gan và tình trạng ung thư.
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, các tiến bộ ngoại khoa trong phẫu thuật nội soi cắt gan, ghép gan… Đã mở ra cơ hội sống cho người bệnh, đặc biệt là các trường hợp người bệnh ung thư giai đoạn cuối.
Theo PGS TS BS. Bùi Hữu Hoàng - Trưởng khoa Tiêu hóa Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, ngoài liệu pháp cổ điển hóa trị: Bơm hóa chất và làm thuyên tắc mạch nuôi khối u (TACE), y học hiện nay đã có những liệu pháp tân tiến khác như: Liệu pháp nhắm trúng đích (ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư), liệu pháp miễn dịch (kích hoạt hệ thống miễn dịch cơ thể tự tiêu diệt tế bào ung thư), liệu pháp kháng sinh mạch máu (ức chế sự phát triển các mạch máu ở khối u). Những liệu pháp tân tiến đã hỗ trợ rất nhiều trong quá trình điều trị cho người bệnh.
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, người bệnh ung thư gan được đội ngũ các bác sĩ hội chẩn, lựa chọn chỉ định những phương pháp điều trị phù hợp nhất và phối hợp điều trị nhiều chuyên khoa để có được hiệu quả điều trị tối ưu, mở ra cho người bệnh ung thư gan những hy vọng mới trong điều trị và hồi phục.
Gần đây, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM tiếp nhận trường hợp của người bệnh Nguyễn Văn V. (51 tuổi, ngụ tại TPHCM) nhập viện trong tình trạng đau nhói vùng hạ sườn phải, sốt nhẹ không giảm và xuất hiện vàng da nhẹ. Các bác sĩ đã thực hiện siêu âm chẩn đoán kết hợp với xét nghiệm AFP và chụp cộng hưởng từ (MRI).
Kết quả cho thấy, anh V. có khối u ở gan kích thước 3,9cm và có dấu hiệu di căn. Các bác sĩ đã tiến hành hội chẩn và thực hiện phẫu thuật cắt bỏ phần gan mang khối u kết hợp điều trị bằng thuốc ngăn ngừa di căn phát triển. Anh V. đã hồi phục sau phẫu thuật, hiện vẫn được theo dõi sức khỏe và tái khám định kỳ.
Gần đây, Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận trường hợp của người bệnh Nguyễn Văn V. (51 tuổi, ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh) nhập viện trong tình trạng đau nhói vùng hạ sườn phải, sốt nhẹ không giảm và xuất hiện vàng da nhẹ.
Các bác sĩ đã thực hiện siêu âm chẩn đoán kết hợp với xét nghiệm AFP và chụp cộng hưởng từ (MRI). Kết quả cho thấy, anh V. có khối u ở gan kích thước 3,9 cm và có dấu hiệu di căn. Các bác sĩ đã tiến hành hội chẩn và thực hiện phẫu thuật cắt bỏ phần gan mang khối u kết hợp điều trị bằng thuốc ngăn ngừa di căn phát triển. Anh V. đã hồi phục sau phẫu thuật, hiện vẫn được theo dõi sức khỏe và tái khám định kỳ.
Ung thư gan là loại ung thư có tỷ lệ mắc mới hằng năm đứng đầu trong các loại ung thư tại Việt Nam. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Việt Nam có tỷ lệ mắc ung thư gan theo giới tính nam cao thứ ba thế giới. Ung thư gan gồm: ung thư gan nguyên phát (tế bào gan trở nên bất thường) và ung thư gan thứ phát (tế bào ung thư ở bộ phận khác đi vào gan). Các tế bào ung thư phát triển gây ảnh hưởng đến mô liền kề và có thể lan sang các vùng khác của gan, thậm chí là các cơ quan khác ngoài gan.
Theo PGS, TS, bác sĩ Bùi Hữu Hoàng, Trưởng khoa Tiêu hóa Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, những người mắc các bệnh về gan mạn tính như: viêm gan B mạn, viêm gan C mạn và xơ gan thường có nguy cơ cao bị ung thư gan. Theo thống kê, có từ 80% đến 90% số người bệnh từng bị xơ gan tại thời điểm chẩn đoán ung thư gan.
Ngoài ra, với những người có tiền sử gan nhiễm mỡ, đái tháo đường type II hoặc do các yếu tố khác như di truyền, nghiện rượu, nghiện thuốc lá… cũng thuộc nhóm có nguy cơ bị ung thư gan. Các triệu chứng ung thư gan cụ thể thường không xuất hiện trong giai đoạn đầu.
Để tầm soát ung thư gan, người bệnh sẽ phải thực hiện một số phương pháp như siêu âm chẩn đoán hình ảnh kết hợp xét nghiệm đo nồng độ AFP trong máu, nội soi ổ bụng, làm sinh thiết, chụp X quang cắt lớp và chụp cộng hưởng từ.
Việc kiểm tra sức khỏe định kỳ giúp phát hiện sớm bệnh về gan, giúp người bệnh được chữa trị kịp thời và có thể chữa khỏi triệt để. TS, bác sĩ Trần Công Duy Long, Trưởng đơn vị Ung thư gan mật Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Nhờ những tiến bộ của khoa học và y học, hiện nay đã có rất nhiều kỹ thuật điều trị bệnh ung thư gan tùy theo từng giai đoạn bệnh.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị được cân nhắc dựa trên sức khỏe, chức năng gan, mức độ xơ gan và tình trạng ung thư. Các tiến bộ ngoại khoa trong phẫu thuật nội soi cắt gan, ghép gan… đã mở ra cơ hội sống cho người bệnh, nhất là các trường hợp ung thư giai đoạn cuối.
Theo bác sĩ chuyên khoa II Lâm Quốc Trung, Phó Trưởng khoa Hóa trị ung thư Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, khi phát hiện bệnh trong giai đoạn đầu, có thể điều trị ung thư gan triệt để với các phương pháp: đốt khối u bằng sóng cao tần (khi kích thước khối u nhỏ hơn 3 cm), phẫu thuật loại bỏ phần gan mang khối u và phẫu thuật ghép gan. Tuy nhiên, khi bệnh tiến đến giai đoạn tiến xa hoặc giai đoạn muộn, người bệnh sẽ được chỉ định liệu pháp điều trị toàn thân.
Ngoài liệu pháp cổ điển hóa trị: bơm hóa chất và làm thuyên tắc mạch nuôi khối u (TACE), y học hiện nay đã có những liệu pháp tân tiến khác như: liệu pháp nhắm trúng đích (ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư), liệu pháp miễn dịch (kích hoạt hệ thống miễn dịch cơ thể tự tiêu diệt tế bào ung thư), liệu pháp kháng sinh mạch máu (ức chế sự phát triển các mạch máu ở khối u). Với nhiều phương pháp hiện đại, người bệnh ung thư gan sẽ được lựa chọn chỉ định những phương pháp điều trị phù hợp nhất và phối hợp điều trị nhiều chuyên khoa để có được hiệu quả điều trị tối ưu, mở ra cho người bệnh ung thư gan những hy vọng mới.
Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là tổn thương ác tính của các tế bào biểu mô nhu mô gan. Trên thế giới, theo số liệu GLOBOCAN 2020, ung thư gan đứng thứ 5 về tỷ lệ mắc và thứ 3 về nguyên nhân tử vong do các bệnh ung thư hàng năm. Tại Việt Nam, ung thư gan đứng thứ nhất về cả tỷ lệ mắc và tử vong, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 29,42% [1]. Nguyên nhân của bệnh có liên quan rõ rệt với virus viêm gan B(70%), ung thư gan thường xuất hiện trên nền gan xơ làm cho việc điều trị khó khăn và tiên lượng của bệnh nhân ung thư gan xấu đi. Ung thư gan thường được chẩn đoán muộn vì 2 lý do: không có triệu chứng ở bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn sớm và sự giám sát không đầy đủ ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Kết quả là có nhiều bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn muộn tại thời điểm chẩn đoán, điều này gây nên gánh nặng bệnh tật và chi phí y tế. Ung thư gan được nhận biết như thế nào? Có nhiều đặc điểm lâm sàng khác nhau ở bệnh nhân mắc ung thư gan, nhiều bệnh nhân không có triệu chứng liên quan đến khối u đặc biệt những người phát hiện ung thư gan ở giai đoạn đầu. Những bệnh nhân ở giai đoạn tiến triển có thể gặp những triệu chứng như sụt cân, đau bụng, vàng da, sờ thấy u bụng…., giai đoạn muộn trên nền xơ gan mất bù có thể gặp cổ chướng, nôn ra máu… Phương tiện chẩn đoán ngày nay đã có nhiều tiến bộ, chẩn đoán xác định dựa vào chỉ dấu huyết thanh alpha-fetopro... (AFP) tăng cao> 400ng/mL, hình ảnh đặc hiệu khối u gan trên MRI/CTscan, tiền sử viêm gan virus... Những trường hợp nghi ngờ có thể sinh thiết gan chẩn đoán mô bệnh học[2]. Vì sao bệnh nhân ung thư gan được chỉ định thuốc điều trị đích? Ung thư gan có thể được điều trị theo nhiều phương pháp khác nhau phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh gan đi kèm. + Giai đoạn sớm có thể ghép gan, phẫu thuật cắt thùy gan, điều trị tại chỗ như nút mạch hóa chất, vi sóng, tiêm cồn…. + Giai đoạn tiến triển khi bệnh đã lan ra ngoài gan(xâm lấn mạch máu, di căn xa) hoặc không phù hợp với điều trị tại chỗ, bệnh nhân được nhận phương pháp điều trị toàn thân. Các tác nhân hóa trị độc tế bào thông thường hầu như không được chỉ định điều trị do tỷ lệ biểu hiện cao các gen kháng thuốc của khối u gan. Liệu pháp nhắm mục tiêu phân tử (điều trị đích) được chỉ định điều trị cho bệnh ở giai đoạn này. Từ năm 2009 tại Việt Nam các thuốc kháng TKIsoraf...., tiếp đến là lenva...được phê duyệt cho điều trị bước 1, regora... bước 2 HCC giai đoạn tiến triển.Qua các nghiên cứu và thực hành lâm sàng đã cho thấy kết quả sống thêm toàn bộ của bệnh nhân ung thư gan được cải thiện có ý nghĩa so với chỉ chăm sóc hỗ trợ đơn thuần.Tuy nhiên kết quả này vẫn còn khiêm tốn chưa thực sự vượt trội[3][4] Vai trò của liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư gan có gì khác biệt? Liệu pháp miễn dịch được thực hiện thông qua việc kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, liệu pháp miễn dịch đang trở thành một lựa chọn quan trọng trong điều trị ung thư gan. Các liệu pháp miễn dịch có thể được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân ung thư gan giai đoạn muộn mà chưa được điều trị toàn thân trước trước đó hoặc đã điều trị với liệu pháp đích. Việc điều trị sớm sẽ giúp giảm hơn 35% tiến triển bệnh hoặc tử vong so với liệu pháp điều trị đích. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống thêm cho 50% bệnh nhân ung thư gan giai đoạn muộn với nhóm bệnh nhân châu Á có thể lên tới 2 năm. Bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch thường trải qua ít tác dụng phụ hơn so với các phương pháp truyền thống như hóa trị và điều trị đích và có chất lượng cuộc sống tốt hơn. Liệu pháp miễn dịch không chỉ hiệu quả trong điều trị ung thư gan mà còn trong nhiều loại ung thư khác như ung thư phổi, ung thư vú, và ung thư đại trực tràng…. Sự thành công của nó trong nhiều loại bệnh lý đã làm nổi bật sự quan trọng của phương pháp này trong lĩnh vực y học. Năm 2019 thành công của nghiên cứu IMBrave150 kết hợp giữa thuốc miễn dịch Atezoni.... và thuốc kháng sinh mạch Bevac....điều trị bước 1 ung thư gan đã đưa lại kết quả sống thêm toàn bộ vượt trội so với soraf... (19,2 tháng sv 13,4 tháng). Phác đồ đã chứng minh được tính hiệu quả và tiềm năng lớn trong việc kiểm soát và giảm tiến triển của bệnh[5]. Qua các nghiên cứu và thực hành lâm sàng tại bệnh viện K, cho thấy liệu pháp miễn dịch đã gia tăng thời gian sống thêm cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư gan. Tuy nhiên chi phí điều trị vẫn còn khá lớn so với thu nhập của người Việt Nam, vì vậy còn khá nhiều bệnh nhân chưa tiếp cận được với liệu pháp này. Gần đây Bộ Y tế đã phê duyệt các chương trình hỗ trợ thuốc miễn dịch cho bệnh nhân ung thư gan tại một số bệnh viện, trong đó có bệnh viện K. Điều này đã giúp giảm gánh nặng tài chính cho bệnh nhân và gia đình họ, có nhiều hơn bệnh nhân được tiếp cận với liệu pháp tiên tiến này.
Nhận xét